Ông
Nguyễn Văn Liễn
Phi lộ
Phi lộ
Trong hai chúng tôi, cô Ngọt là người trực tiếp đi tìm
mộ nên những điều kể ra dưới đây đều là sự thực. Tôi (Thông) viết lại lời kể,
và đã đăng trên tạp chí Thế Giới Mới năm 2007. Nay lưu lại vào blog để mọi
người cùng biết.
Việc các nhà ngoại cảm lâu nay tìm hài cốt liệt
sĩ thường gây những luồng dư luận trái chiều, nửa tin nửa ngờ; chính vì vậy
trong quá trình mời họ giúp đỡ, chúng tôi đã cẩn thận ghi lại những điều mắt
thấy tai nghe, ngày giờ, con người cụ thể... vừa để tỏ lòng biết ơn các ân
nhân, vừa làm tư liệu cho gia đình. Và chúng tôi vẫn muốn nhắc lại: tất cả đều
là sự thực!
GẶP
CÔ ĐỒNG HÀ
Theo
gia phả, dòng họ Nguyễn nhà tôi gốc gác ở huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình,
khoảng cuối thế kỷ 18 cụ tổ di cư sang phủ Kiến Thụy (Hải Phòng) kiếm sống. Đến
đời ông nội tôi là thế hệ thứ 3, các cụ sinh được 7 người con trai, bố tôi thứ
6, còn ông Nguyễn Văn Liễn sinh năm 1912 là út. Sinh thời bố tôi vẫn thường kể
về chú Liễn học rất giỏi, sớm giác ngộ cách mạng và đã hy sinh trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, chưa tìm được mộ. Thông tin về chú cũng rất ít ỏi, nhất
là nơi chôn cất, còn theo lời kể lại của những người cùng công tác cơ quan
Thành ủy Hải Phòng thì mộ ông Liễn nằm tại một nơi nào đó huyện Đồng Hỷ, tỉnh
Thái Nguyên. Mãi đến khoảng cuối những năm 60, có một ông khách thỉnh thoảng từ
TP Hải Phòng về trò chuyện cho biết nơi ấy là xã Đồng Bẩm, huyện Đồng Hỷ bởi
trạm giao liên của Thành ủy Hải Phòng hồi kháng chiến đặt tại đó, tháng 7.1951
ông Liễn trên đường đi công tác bị sốt rét ác tính không qua khỏi, được đồng
đội và nhân dân địa phương chôn cất. Vị khách ấy sau chúng tôi mới biết là ông
Lê Quốc Khánh, cán bộ Thành ủy, Giám đốc Bảo tàng Hải Phòng, ông rất nhiệt tình
chỉ dẫn nhưng ngặt vì khi đó cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ rất ác
liệt, đi lại khó khăn, vả lại những người khỏe nhất trong dòng họ đã ra chiến
trường nên cứ nấn ná mãi. Trước khi mất (năm 1991) bố tôi dặn dò các con cháu
dù sớm hay muộn cũng ráng tìm đưa bằng được ông Liễn trở về quê hương.
Việc đầu tiên là phải tìm đến những người đã cùng công tác với ông Liễn ở cơ quan Thành ủy Hải Phòng, nhất là những người đã biết về sự hy sinh của chú tôi. Các cụ đều đã già nhưng may mắn vẫn minh mẫn, kể nhiều chi tiết thật đáng quý cần thiết cho việc tìm mộ sau này. Ngoài ông Lê Quốc Khánh nói ở trên, Ngọt và anh Trác, anh Huy (con một người bác, cũng là cháu gọi ông Liễn bằng chú ruột), Kha (chồng Ngọt, sĩ quan công an Hải Phòng), Trí, San, Hiệu (gọi ông Liễn bằng ông)... chia nhau tìm đến nhà các cụ như cụ Ngô Văn Ngọ, cụ Vũ Văn Hồng, cụ Lê Tuấn- đều là cán bộ Thành ủy; ông Ngô Chí Khoái- nguyên sĩ quan tham mưu Sư đoàn 308 hồi năm 1951... để nghe kể về ông Liễn đã hy sinh như thế nào, ở đâu. Các cụ khẳng định nơi đặt trạm giao liên Thành ủy Hải Phòng chính là nơi có mộ ông Liễn. Và quý nhất là chi tiết: rất có thể nơi ấy trước kia là đồn điền của bà “địa chủ” Nguyễn Thị Năm.
Việc đầu tiên là phải tìm đến những người đã cùng công tác với ông Liễn ở cơ quan Thành ủy Hải Phòng, nhất là những người đã biết về sự hy sinh của chú tôi. Các cụ đều đã già nhưng may mắn vẫn minh mẫn, kể nhiều chi tiết thật đáng quý cần thiết cho việc tìm mộ sau này. Ngoài ông Lê Quốc Khánh nói ở trên, Ngọt và anh Trác, anh Huy (con một người bác, cũng là cháu gọi ông Liễn bằng chú ruột), Kha (chồng Ngọt, sĩ quan công an Hải Phòng), Trí, San, Hiệu (gọi ông Liễn bằng ông)... chia nhau tìm đến nhà các cụ như cụ Ngô Văn Ngọ, cụ Vũ Văn Hồng, cụ Lê Tuấn- đều là cán bộ Thành ủy; ông Ngô Chí Khoái- nguyên sĩ quan tham mưu Sư đoàn 308 hồi năm 1951... để nghe kể về ông Liễn đã hy sinh như thế nào, ở đâu. Các cụ khẳng định nơi đặt trạm giao liên Thành ủy Hải Phòng chính là nơi có mộ ông Liễn. Và quý nhất là chi tiết: rất có thể nơi ấy trước kia là đồn điền của bà “địa chủ” Nguyễn Thị Năm.
Ông
Nguyễn Văn Liễn và các cán bộ cơ quan Thành ủy Hải Phòng tại vùng tự do Vĩnh
Bảo năm 1948 (ông Liễn thứ 2 từ phải sang; ông Trần Đông, sau này là Thứ trưởng
Bộ Công an, thứ 4 phải sang)
Năm
1998, các anh Trác, Huy, Giễ (Dũng) khăn gói lên Thái Nguyên mở cuộc tìm kiếm
đầu tiên nhưng do chưa chuẩn bị chu đáo nên không có kết quả. Cảnh quan đã thay
đổi nhiều sau gần nửa thế kỷ, người dân địa phương cũng không mấy ai nhớ chuyện
xưa, hỏi đồn điền bà Năm nhiều người không biết. Anh Trác về hỏi lại ông Khánh,
ông khẳng định chắc chắn là ở Đồng Bẩm, đồn điền bà Năm, cứ chịu khó hỏi thế
nào cũng lần tìm ra manh mối. Trước sự quả quyết của ông Khánh, lại nhen lên
tia hy vọng.
Giữa
năm 2003, cả nhà lại bàn việc tìm mộ ông Liễn. Lần này chủ yếu giao cho bọn
thanh niên vì các anh đã lớn tuổi, sức yếu khó trèo đèo lội suối. Kha là công
an nhưng giỏi tử vi bảo rằng tại sao không nhờ các nhà ngoại cảm tìm giúp.
Nhưng chuyến đi đã được chuẩn bị xong, thời gian gấp gáp nên đợt này nếu vẫn
chưa kết quả gì sẽ tính đến điều ấy, tuy nhiên nếu có điều kiện sẽ kết hợp
luôn. Sáng thứ ba 5.8.2003, thắp nhang trước bàn thờ ông Liễn khấn ông phù hộ
xong, chúng tôi lên đường. Xe khách khởi hành từ Hải Phòng lúc 6 giờ, chỉ 10
giờ 30 đã tới TP Thái Nguyên, nghỉ ngơi một chút tôi (Ngọt) và Kha mượn xe máy
tìm đến UBND xã Đồng Bẩm, huyện Đồng Hỷ. Sau khi xem giấy giới thiệu của Thành
ủy Hải Phòng, anh Bùi Ngọc Văn cán bộ chính sách xã dẫn chúng tôi đi gặp một số
người từng tham gia kháng chiến ở địa phương, trong đó có bà Vãn (chồng tên
Đăng nên thường gọi là bà Đăng) đang bán hàng tại chợ thị trấn Chùa Hang. Bà
quê gốc Thái Bình, giúp việc cho gia đình bà Nguyễn Thị Năm, chủ đồn điền từng
nuôi dưỡng, che giấu nhiều cán bộ cách mạng cấp cao (Trường Chinh, Hoàng Quốc
Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị...), nuôi hàng trung đoàn Vệ
quốc quân thời đánh Pháp. Bà Vãn đã ngoài 80 nhưng đầu óc minh mẫn lắm, kể lại
những chuyện xảy ra cách nay cả hơn nửa thế kỷ mà vẫn khúc chiết với nhiều chi
tiết rõ ràng không ngờ. Bà bảo hồi cụ Năm còn sống có biết bao nhiêu đoàn cán
bộ chiến sĩ đã ghé đây, được nuôi dưỡng chăm sóc; những người chết bệnh hoặc hy
sinh từ mặt trận đưa về được chôn ngay trong đồn điền, khu vực ao sen, nhưng
khi ấy đồn điền rộng hơn 12.000 ha nên bây giờ cũng khó xác định nơi nào. Sực
nhớ điều gì, bà Vãn khuyên chúng tôi đến gặp cô đồng Hà ở xã Cù Vân, huyện Đại
Từ để gọi hồn, “nhờ cách ấy mà chính tôi đã tìm ra mộ bố mình đấy, cô chú ạ”.
Cám ơn và xin phép bà ra về, chúng tôi chỉ mong đêm qua thật mau để tìm đến nhà
cô đồng.
Sáng
6.8.2003, theo lời chỉ dẫn của bà Vãn, chúng tôi đến xóm Bắc Máng, xã Cù Vân,
huyện Đại Từ. Nhà cô đồng Hà nhỏ ba gian ngay dưới chân đồi. Chúng tôi ngạc nhiên
khi thấy cô còn trẻ, khoảng 25- 27 tuổi, gầy nhỏ nhắn. Phải nói rằng đây là lần
đầu tiên chúng tôi gặp người được gọi là “cô đồng”, và cũng lần đầu tiên gặp cô
đồng Hà bởi cuộc viếng thăm này hoàn toàn bất ngờ không hề chuẩn bị trước. Mặc
dù mới sáng sớm nhưng trong nhà cô đã có gần chục người ngồi đợi. Một chiếc bàn
thờ nhỏ đặt nơi góc nhà trang trí sơ sài, nghi ngút khói hương. Lúc chúng tôi
vào, cô đang lắc lư gọi hồn mẹ một phụ nữ trạc tuổi 45. Có chị khách ngồi ngoài
cửa cho biết lễ vật một lần gọi là 1 bát gạo và 2.000 đồng. Kha sang nhà cạnh
đó hỏi mua bát gạo, lúc trả tiền chủ nhà chỉ “xin bác 1.000 đồng”. Chúng tôi
đặt lễ vật lên bàn thờ rồi bước ra ngoài chờ đến lượt mình, lòng cảm thấy hồi
hộp bởi trước nay chỉ nghe những chuyện nửa thực nửa hư quanh việc gọi hồn, còn
bây giờ chính mình sẽ tham gia. Khi đến lượt, tôi viết họ tên mình và tên chú
Liễn vào mảnh giấy nhỏ. Cô đồng cầm lấy và lên giọng ngân nga khấn khứa. Rồi im
lặng. Dăm phút sau cô bật khóc nức nở. Người ngồi cạnh bấm nhẹ tay tôi “cụ về
rồi đấy, cô gọi cụ đi”. Tự dưng tôi òa khóc, vội vàng thưa “Chú ơi, con là
Nguyễn Thị Ngọt đi tìm chú đây. Sao chú lại chết?”. Cô đồng trả lời, rất nhỏ,
tiếng nói như từ cõi xa nào vọng về “chú bị sốt”. Nghe vậy tôi bàng hoàng bởi
ông Lê Quốc Khánh từng nói với bố tôi là chú Liễn chết do sốt rét ác tính. -
Chú ơi, giờ này chú đang nằm ở đâu? - “Dưới chân một tường rào, bị đè lên
rồi!”. - Liệu chúng con có tìm được không? - “Tìm được”.
- Ngay chiều nay có tìm được không? - “Không. Hôm qua con đã đi qua lại trước mặt chú nhiều lần nhưng hôm nay vẫn chưa tìm được đâu”. - Vậy làm thế nào tìm? - “Bao giờ con gặp chỗ có nhiều hòn đá nhỏ, lẫn ở đó có một hòn đá màu trắng to bằng cái ghế con (tôi đưa mảnh giấy, cô đồng vẽ nguệch ngoạc vào) thì đó là chỗ chú nằm”. - Chú ơi, con cùng anh Trác và các cháu đang làm giấy đề nghị công nhận liệt sĩ cho chú, liệu có thuận lợi không? - “Trước thì khó khăn, bây giờ bắt đầu thuận lợi rồi” (khi chúng tôi trở về Hải Phòng, quả đúng như thế). - Chú có cần gì không? Ông Khánh, ông Ngọ nhớ và thương chú lắm, chú có nhớ các ông ấy không? - “Không cần gì cả. Có nhớ các ông ấy” (cô đồng khóc). - Chúng con đi tìm chú, có gì chú mách bảo, hướng dẫn nhé (cô đồng im lặng không nói gì, sau đó gật đầu). Ít phút trôi qua, cô choàng tỉnh, uống liền mấy cốc nước, như không có chuyện gì vừa xảy ra. Trời đã trưa, chúng tôi về để chiều tiếp tục cuộc tìm kiếm.
- Ngay chiều nay có tìm được không? - “Không. Hôm qua con đã đi qua lại trước mặt chú nhiều lần nhưng hôm nay vẫn chưa tìm được đâu”. - Vậy làm thế nào tìm? - “Bao giờ con gặp chỗ có nhiều hòn đá nhỏ, lẫn ở đó có một hòn đá màu trắng to bằng cái ghế con (tôi đưa mảnh giấy, cô đồng vẽ nguệch ngoạc vào) thì đó là chỗ chú nằm”. - Chú ơi, con cùng anh Trác và các cháu đang làm giấy đề nghị công nhận liệt sĩ cho chú, liệu có thuận lợi không? - “Trước thì khó khăn, bây giờ bắt đầu thuận lợi rồi” (khi chúng tôi trở về Hải Phòng, quả đúng như thế). - Chú có cần gì không? Ông Khánh, ông Ngọ nhớ và thương chú lắm, chú có nhớ các ông ấy không? - “Không cần gì cả. Có nhớ các ông ấy” (cô đồng khóc). - Chúng con đi tìm chú, có gì chú mách bảo, hướng dẫn nhé (cô đồng im lặng không nói gì, sau đó gật đầu). Ít phút trôi qua, cô choàng tỉnh, uống liền mấy cốc nước, như không có chuyện gì vừa xảy ra. Trời đã trưa, chúng tôi về để chiều tiếp tục cuộc tìm kiếm.
CHUYỆN GIA ĐÌNH “ĐỊA CHỦ” NGUYỄN THỊ NĂM
Chiều
6.8, nhớ câu nói của bà cụ Vãn “những người chết tại đồn điền trong khoảng
những năm 1950- 1953 đều chôn ở khu vực ao sen” nên chúng tôi dò hỏi và tập
trung tìm kiếm tại nơi này. Trên thực địa mênh mông, nhà cửa chen lẫn rừng cây,
chỗ nào chẳng giống chỗ nào. Ao sen ở đâu, liệu có còn? Theo lối mòn cạnh tường
rào UBND huyện Đồng Hỷ, đến nơi cách đường lớn khoảng ba bốn trăm mét chúng tôi
chỉ thấy một bờ cây gai góc rậm rạp. Gặp bà cụ ngoài 70 đang chăn trâu, cụ hỏi
ngay “chắc cô chú đi tìm mộ?”. Chúng tôi lại một phen kinh ngạc liền hỏi thăm
bà cụ ao sen chỗ nào. Cụ chỉ tay “ngay cạnh chỗ cô chú đứng chứ đâu”. Nhìn kỹ
thấy đúng là có cái ao thực, hình bầu dục, vẫn còn những bậc đá lên xuống. Phía
bên phải ao, nhà cửa cây cối sầm uất, rậm rạp. Vạch cây rẽ lá, chúng tôi dò tìm
quanh quẩn một lúc thì phát hiện đằng góc ao có đống đá nhỏ, trong đó một hòn
to hơn và có vẻ trắng hơn. Chả biết có phải cô đồng Hà nói vậy mà mình cảm thấy
vậy chăng? Nửa phân vân, nửa hy vọng, chúng tôi lại gần đống đá và thắp hương
khấn mong chú Liễn về phù hộ. Đi thêm một đoạn chợt thấy ngôi nhà xây tường
gạch bao quanh, chúng tôi gõ cửa. Một phụ nữ ngoài 40 đẹp hiền hậu ra mở cửa
đưa chúng tôi vào nhà mặc dù chưa biết khách là ai. Nhìn những huân huy chương
treo trên tường, tôi biết đây là nhà đại tá Mai Trung Lâm, nguyên tư lệnh
trưởng Quân khu 2, đã mất. Sau khi con dâu vào báo tin, bà Lâm ra tiếp. Kha
thưa với bà mục đích chuyến đi, bà tỏ vẻ rất xúc động khi nghe chuyện về ông
Liễn bởi bà từng là cán bộ kháng chiến hoạt động tại vùng này. Hỏi về khu đồn
điền, bà Lâm bùi ngùi kể cho chúng tôi về bà Nguyễn Thị Năm và những đóng góp
to lớn của bà Năm với cách mạng; bà khuyên chúng tôi kiên nhẫn tìm kiếm, đừng
bỏ dở chừng. Bà lại giới thiệu sang gặp cụ Quý, người thân thiết với gia đình
bà Năm, nhà cũng gần đó.
Sang gặp cụ Quý. Chuyện trò một hồi, khi chúng tôi khoe đã gặp bà Vãn, cụ Quý thoáng nhíu mày, im lặng không nói gì chỉ khuyên chúng tôi nên tìm gặp ông Hanh, con trai cụ Nguyễn Thị Năm, lại cho cả địa chỉ và số điện thoại nhà ông Hanh ở Hà Nội.
Biết có ở lại Thái Nguyên cũng chưa thể tìm được mộ vì thông tin còn quá ít ỏi, hôm sau 8.8.2003 chúng tôi quay trở về Hà Nội. Đến nhà số 117 Hàng Bạc, may mắn gặp bà Hanh, con dâu trưởng cụ Năm. Ấn tượng đầu tiên về bà là sự gần gũi cởi mở nhưng vẫn toát lên vẻ lịch lãm sang trọng. Chúng tôi xin phép thắp hương cho cụ Năm, chạnh buồn nghĩ đến người phụ nữ mà cuộc đời gắn liền với một giai đoạn cực kỳ hào hùng nhưng cũng đầy đau thương của dân tộc. Cụ Năm là người đầu tiên bị xử bắn khi cuộc cải cách ruộng đất “long trời lở đất” năm 1953 mở màn, cái chết của “bà địa chủ” này đã thành tấn bi kịch không chỉ của một con người, một gia đình mà của cả một thời kỳ lịch sử. Mặc dù ngay sau đó Nhà nước đã tiến hành “sửa sai”, nhìn nhận lại những ấu trĩ, sai lầm của “cải cách ruộng đất” nhưng có những nỗi đau vẫn cứ dai dẳng. Trò chuyện, bà Hanh bảo: Gia đình tôi rất buồn vì đến giờ cụ (cụ Năm) vẫn chưa được công nhận là người có công với kháng chiến. Mẹ tôi nuôi dưỡng, che chở cho cả sư đoàn bộ đội, cán bộ, hiện rất nhiều người còn sống biết chuyện nhưng đều đã cao tuổi, mai sau họ mất đi thì mọi chuyện sẽ rơi vào quên lãng. Bà kể thêm, giọng đượm buồn: “Cô chú biết không, cô Đăng (tức bà Vãn mà chúng tôi đã gặp trên Thái Nguyên) là người giúp việc cho cụ Năm, cụ rất thương yêu, tin cậy. Vậy mà chả hiểu làm sao tự dưng cô ấy lại chính là người đấu tố cụ nhà tôi hăng nhất”. Tôi chợt nhớ sự im lặng, trầm ngâm của bà Quý lúc trên Thái Nguyên và thưa lại những điều tốt đẹp mà bà Vãn nói về cụ Năm trong cuộc gặp vừa qua, bà Hanh nghe nhưng vẫn buồn.
Sau
cuộc gặp này, việc liên lạc với gia đình cụ Năm được giao lại cho Nguyễn Ngọc
Trai (con anh Trác), sĩ quan đang công tác tại Cục Bản đồ (Bộ Quốc phòng).
Trước đó ông Hanh có kể cho tôi nghe về chuyện tìm mộ mẹ mình. Sau khi xử bắn,
người ta đã đem xác “địa chủ” Nguyễn Thị Năm đi chôn nơi nào đó mà thân nhân
không hề biết. Kể từ hòa bình lập lại, gia đình rất nhiều lần tổ chức tìm mộ cụ
nhưng không thành, thất vọng đến mức đành phải lấy tạm một ít đất ở khu vực đồn
điền, nơi bà bị bắn cho vào cái tiểu sành đem về, thay cho hài cốt. Năm 1993,
nghe người ta kể về nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên ở xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Kỳ
(tỉnh Hải Dương), ông Hanh tìm đến. Lúc ấy mặc dù rất bận nhưng ông Liên vẫn
sốt sắng giúp; có lẽ với một người, một số phận như cụ Nguyễn Thị Năm chả ai nỡ
từ chối. Lúc tiến hành tìm kiếm, ông Liên vẫn ở Hải Dương, chỉ hướng dẫn qua
điện thoại. Cả đoàn nhất nhất làm theo lời nhà ngoại cảm, ông Liên bảo hãy đến
khu vực sân bay cũ bỏ hoang, thấy cây nào có lá nhỏ nhất thì đào. Mọi người
chia nhau tìm trên cả vùng rộng lớn, cây cối um tùm và thật lạ cả khu vực mấy
cây số vuông chỉ duy nhất một cây phượng lá nhỏ. Chưa kịp gọi điện báo về thì
nhà ngoại cảm chủ động gọi, nói chính nơi đó, ngay gốc cây, hãy đào đi. Đào
xuống sâu hơn một mét quả nhiên thấy có bộ hài cốt chôn sơ sài đã nát vụn, duy
chỉ còn mấy chiếc cúc áo của chiếc áo mà cụ Năm mặc khi bị bắn là con cháu nhận
ra ngay. Mọi người òa khóc. Và may làm sao, không thể nào nhầm được khi lẫn
trong đám xương vụn đó chiếc vòng tay ngọc thạch cụ Năm thường đeo. Cả nhà bùi
ngùi xót thương đưa cụ về. Ông Hanh cùng con cháu đắp thêm đất vào gốc cây
phượng. Suốt 40 năm trên nấm mồ hoang không hương khói, cây phượng vĩ vẫn nở
những chùm hoa đỏ rực viếng hương hồn người đàn bà chịu nhiều oan khiên.
BẢN SƠ ĐỒ CỦA NHÀ NGOẠI CẢM NGUYỄN ĐỨC PHỤNG
Qua
sự giới thiệu của ông Hanh, Trai tiếp tục đến Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng
con người (Bộ Quốc phòng) tìm ông Liên nhưng không gặp. Dạo này ông thường ở
quê Hải Dương. Đang lúc chưa biết sẽ phải làm gì thì ông Nguyễn Đức Phụng cũng
là nhà ngoại cảm ở trung tâm hứa giúp đỡ. Trai kể ông Phụng nghe đầu đuôi câu
chuyện, ông liền vẽ một sơ đồ trên giấy A4 với những chỉ dẫn cụ thể, cho cả số
điện thoại để tiện liên lạc (số 0904167724).
Ngày 28.2.2004, Nguyễn Ngọc San, cán bộ Sở Văn hóa- Thông tin Hải Phòng (cũng là cháu gọi ông Liễn bằng ông) thu xếp một chuyến xe đưa cả đoàn gồm Ngọt, Kha, Trí, Trai lên Thái Nguyên. Khởi hành sớm từ 5 giờ sáng, gặp bữa sương mù nên xe chạy hơi chậm, mãi gần trưa mới đến Đồng Hỷ. Kha nửa đùa nửa thật “chuyến này chưa tìm được mộ ông thì chưa về” để tỏ rõ quyết tâm của cả bọn. Gửi xe vào khuôn viên UBND huyện, căn theo bản sơ đồ ông Phụng vẽ, chúng tôi chia nhau đi tìm. Lại đến khu ao sen, rẽ vào thăm bà Mai Trung Lâm. Cuộc tái ngộ thật cảm động. Sau gần nửa năm trời, bà Lâm vẫn nhận ra ngay chúng tôi. Bà kể từ dạo đó đến nay bà đã mấy lần gặp những cán bộ kháng chiến ở xung quanh đây dò hỏi về ông Liễn, và trách nhẹ “không thấy các cháu quay lại, cũng chẳng tin tức gì, bác tưởng các cháu đã nản lòng”. Tôi thưa chuyện cùng bà, lòng thầm cảm ơn trời phật đã độ trì cho chúng tôi gặp được những người tốt như vậy.
Ngày 28.2.2004, Nguyễn Ngọc San, cán bộ Sở Văn hóa- Thông tin Hải Phòng (cũng là cháu gọi ông Liễn bằng ông) thu xếp một chuyến xe đưa cả đoàn gồm Ngọt, Kha, Trí, Trai lên Thái Nguyên. Khởi hành sớm từ 5 giờ sáng, gặp bữa sương mù nên xe chạy hơi chậm, mãi gần trưa mới đến Đồng Hỷ. Kha nửa đùa nửa thật “chuyến này chưa tìm được mộ ông thì chưa về” để tỏ rõ quyết tâm của cả bọn. Gửi xe vào khuôn viên UBND huyện, căn theo bản sơ đồ ông Phụng vẽ, chúng tôi chia nhau đi tìm. Lại đến khu ao sen, rẽ vào thăm bà Mai Trung Lâm. Cuộc tái ngộ thật cảm động. Sau gần nửa năm trời, bà Lâm vẫn nhận ra ngay chúng tôi. Bà kể từ dạo đó đến nay bà đã mấy lần gặp những cán bộ kháng chiến ở xung quanh đây dò hỏi về ông Liễn, và trách nhẹ “không thấy các cháu quay lại, cũng chẳng tin tức gì, bác tưởng các cháu đã nản lòng”. Tôi thưa chuyện cùng bà, lòng thầm cảm ơn trời phật đã độ trì cho chúng tôi gặp được những người tốt như vậy.
Chia
thành hai nhóm, nhóm gồm tôi và Trí xin phép bà Lâm đi tiếp vào sâu phía trong.
Một phụ nữ trung niên đang tưới rau muống chỉ cho chúng tôi lối mòn dẫn vào
bản. Con đường này đúng y trên sơ đồ chỉ dẫn ông Phụng vẽ. Trước khi chúng tôi
lên đường, gọi điện cho ông, ông dặn “cứ gặp 3 cụ già hỏi sẽ ra”. Loanh quanh
một lúc, vòng sang bên phải, chúng tôi lần theo bức tường bao men lối đi dẫn
vào căn nhà nhỏ ven đường. Không ngờ Kha và Trai đã đến tự hồi nào, đang trò
chuyện với 3 cụ già khoảng 70- 80. Bất chợt ngoài cổng có tiếng trẻ con reo “A,
cậu đã về”, nhìn ra thấy một người đàn ông trung niên dắt xe đạp vào. Chúng tôi
chưa kịp chào, anh hỏi luôn “Đi tìm mộ phải không? Chẳng cần tìm đâu xa, ở gần
đây thôi!”. Mọi người ngạc nhiên, anh tự giới thiệu tên là Định, nói ngay “ngày
bé tôi suốt ngày chơi ở đây, biết chỗ này có một cái mộ” rồi chỉ vào phía góc
tường bao, chỗ Trai đang đứng, gần đó là cái gốc cây to cao khoảng nửa mét.
Thật mừng vì theo sơ đồ ông Phụng thì mộ nằm trên sườn đồi, cạnh ngã ba, dưới
một cây to, biết đâu cái gốc cây này có quan hệ gì với cái cây đó chăng.
Chẳng
để chúng tôi hỏi gì thêm, anh Định sốt sắng dẫn cả bọn sang thăm gia đình ông
Thảo, chủ khu vườn xây tường bao chắc chắn. Ông niềm nở đón tiếp và đưa chúng
tôi đi khắp khu vườn rộng. Tới góc vườn, khi nhìn qua bức tường thấy bên ngoài
là ngã ba, bất chợt cả bọn òa lên sửng sốt bởi trước mặt có đống đá lụn vụn, ở
giữa là viên đá trắng tinh to bằng chiếc ghế con. Trời ạ, đúng như lời chỉ dẫn
của cô đồng Hà hơn nửa năm trước trong buổi gọi hồn. Tôi lạnh cả sống lưng, hỏi
nhỏ ông Thảo: Sao lại có đống đá ở đây hả bác? Ông Thảo: “Khi gia đình tôi
chuyển về đây thấy có rồi, làm vườn cứ dồn lại thêm thôi”. - Sao lại có viên đá
trắng đẹp thế ạ? - “Con trai tôi làm việc ở xí nghiệp đá, nó mang về bảo là đá
Thanh Hóa nhưng cả nhà chẳng ai dùng vào việc gì nên vứt đại vào đó. - Lâu chưa
hả bác? - “Cũng dăm tháng nay thôi”. Lúc ấy 3 cụ già mà chúng tôi đã gặp và một
số cụ khác tới, chúng tôi hỏi gần đây có cây to nào không, các cụ chỉ ra gốc
cây phía ngoài tường bao: “Có cây thị to lắm, suốt mấy chục năm lá cứ xanh ngăn
ngắt nhưng chưa bao giờ cho quả. Cách nay mấy tháng xã mở rộng con đường này,
đám thanh niên đứng ra chặt, còn lại cái gốc chả ai đánh đi”. Nhìn xung quanh
góc vườn sạch sẽ, có một giàn trầu, bờ tường phủ đầy hoa đỗ ván tim tím xinh
xinh, mấy khóm ngải cứu, khóm hoa cúc thoang thoảng hương thơm, nếu chú Liễn
nằm đây thì cũng mát mẻ, sạch sẽ, chẳng tủi vong linh suốt mấy chục năm trời.
Cũng
cần nói thêm rằng tất cả mọi thông tin có được trong quá trình đi tìm mộ chúng
tôi đã nhất trí với nhau phải giữ kín để tránh sự suy diễn của người được hỏi.
Sau một hồi trò chuyện, Trí nói bâng quơ chả biết gần đây có ngôi mộ nào không.
Nghe vậy, một người phụ nữ luống 40 tuổi vừa đến nói nhỏ “có đấy, không chỉ một
mà những hai ngôi mộ kia”. Theo hướng tay chị chỉ, Kha giở sơ đồ của ông Phụng
đối chiếu thấy vị trí và khoảng cách đúng y boong. Những thông tin trùng lặp
giữa cô đồng Hà, ông Nguyễn Đức Phụng và thực tế làm chúng tôi phấn chấn hẳn
lên. Bà vợ ông Thảo khuyên: “Các cô các chú ạ, ở vùng này ai tìm mộ cũng thường
hỏi xin ý của Sư cụ chùa Hang. Nếu cô chú có tâm có duyên được gặp cụ, cụ dạy
cho một nhời thì may lắm, chả còn gì phải phân vân cả”.
SƯ CỤ CHÙA HANG
Mặt
trời đã đỉnh đầu, cả bọn ra thị trấn chùa Hang ăn cơm rồi lên xe về TP Thái
Nguyên nghỉ trưa. Chả ai ngủ được. Đúng 2 giờ chiều trở lại Đồng Hỷ. Giữa một
vùng đồi núi lô nhô như bát úp nổi lên ngọn núi đá vôi hùng vĩ vút lên trời
chiều với những tảng đá xám sắc cạnh. Ngôi chùa cổ đặt trong hang núi mà thành
tên. Phía bên ngoài, cạnh hang là ngôi nhà tổ và dãy nhà ngang. Chúng tôi chờ ở
bên ngoài cùng hai gia đình đã đến trước để nhờ sư cụ làm lễ cầu siêu cho người
thân vừa mới mất. Lát sau có dăm người khác cũng tới mong nhận được lời chỉ
giáo của cụ. Hương trầm thoang thoảng, không khí u tịch bao trùm không gian.
Kha ghé tai tôi nói nhỏ đây đúng là nơi siêu thoát khác hẳn cuộc sống trần tục
xô bồ xung quanh chỉ cách vài trăm bước chân. Chờ thêm chút nữa có một người
trong chùa bước ra bảo rằng cụ hẹn đúng 3 giờ sẽ về. Quả nhiên lúc kim đồng hồ
chỉ đúng 3 giờ thì một chiếc xe du lịch 12 chỗ chở cụ về đến nơi. Mọi người tíu
tít ùa ra đón, người dìu cụ, người xách giúp hành lý, gương mặt ai nấy lộ vẻ
thành kính thương yêu. Cụ ngồi nghỉ một lúc trên chiếc giường nhỏ trong gian
nhà tổ. Người người xúm xít xung quanh, bóp chân tay, lấy nước lấy khăn cho cụ
lau mặt, têm trầu mời cụ... Tự dưng tôi thấy cụ hết sức gần gũi, chả khác gì mẹ
tôi ở nhà (đã 88 tuổi). Vừa nhè nhẹ bóp tay cụ, tôi quan sát cụ thấy da đỏ
hồng, đặc biệt là gương mặt cực kỳ thông tuệ, đôi mắt tròn và rất sáng. Người
phụ nữ dáng vẻ lam lũ ngồi bên cạnh cho tôi biết Sư cụ Đàm Hinh nay đã 93 tuổi
(năm 2004) sau đó đặt hai quả gấc đỏ tươi lên chiếc đĩa và kính cẩn “con biếu
cụ”. Cụ chỉ “ừ” rồi với lấy mấy quả cam đưa tận tay chị. Người biếu tiền, người
biếu bánh... với ai cụ cũng nhận và cho lại lộc. Tôi đặt mấy tờ bạc vào chiếc
đĩa nhỏ và rón rén để cạnh chỗ cụ ngồi. Cụ hỏi ngay “Có việc gì không?”. Tôi
mạnh bạo: Thưa cụ, con đi tìm mộ người thân. Cụ nhíu mày, lấy ngón tay cái ấn
vào giữa hai lông mày, mắt nhìn xa ra ngoài sân ngập nắng chiều. Lát sau cụ
bảo, giọng rành rẽ: “Còn mộ đấy! Ở trong vườn nhà người ta, đừng tìm ngoài
nghĩa địa cho phí công. Phía trong tường rào”. Ngừng giây lát, cụ nói thêm “Nhớ
là vườn có hai chủ. Thôi về đi!”. Tôi vội vàng: Cụ ơi, hài cốt còn gì không? -
“Còn, nhưng ít thôi”, cụ chỉ ngắn gọn bấy nhiêu rồi không nói gì nữa. Biết có ở
lại cũng chẳng thể thêm được gì, chúng tôi vội vàng trở về nhà ông Thảo. Hỏi
thăm lai lịch khu vườn, ông bảo trước đây chỗ này ông mua của bà Hải (cô ruột
anh Định). Một phần khu vườn này, nơi mà sau đó chúng tôi tìm ra mộ ông Liễn,
là của nhà anh Định. Khi xã mở con đường xuyên qua, vườn anh Định bị chia làm
hai, gia đình anh liền bán nốt phần bên trong cho ông Thảo. Mà cũng mới bán
chưa làm giấy tờ. Đúng là hai chủ. Nghe chúng tôi kể lại, các cụ già trong xóm
xuýt xoa: các cô các chú được gặp cụ, được cụ tiếp là may lắm. Chúng tôi người
ở đây mà cũng chẳng mấy khi được gặp bởi cụ còn ở cả chùa Huống và mấy chùa
khác nữa cơ. Bà Thảo thì thầm: Được lời của cụ rồi, cô cứ yên tâm chuẩn bị để
lần sau lên bốc cốt về.
Về
Hải Phòng, trên xe ai nấy tràn trề hy vọng bởi chuyến đi này gặt hái nhiều kết
quả ngoài sự mong đợi. Đành rằng vẫn biết việc tìm một ngôi mộ sau hơn nửa thế
kỷ giữa vùng đồi núi mênh mông chẳng đơn giản chút nào, có khi tưởng như đã đi
đến đích mà vẫn về tay không nhưng nhiều thông tin vừa có cực kỳ quý báu. Và
càng mừng hơn nữa khi mọi người trong gia đình báo tin Thành ủy, Sở Lao động-
Thương binh- Xã hội Hải Phòng đã xác minh xong, tiếp đó Bộ Lao động- Thương
binh- Xã hội đã có quyết định công nhận ông Nguyễn Văn Liễn là liệt sĩ. Cả họ
họp lại và thống nhất phải đưa liệt sĩ Nguyễn Văn Liễn về quê trước Tết Ất Dậu.
Ngày 7.1.2005 (27 tháng 11 Nhâm Thân), đoàn đi Thái Nguyên đã sẵn sàng, ngoài những người tham gia hai đợt trước nay bổ sung những con cháu khỏe mạnh nhanh nhẹn nhất trong họ như Thanh Long (thượng tá hải quân), Ngọc San, Lương Vân (giáo viên), Quang Hiệu (kỹ sư), Công Khuê (sĩ quan hậu cần). Đêm trước khi khởi hành tôi gần như không ngủ vì lo chuyến đi không thành công. Mà lần này về tay không cũng có nghĩa là ông Liễn nằm chốn nào đó quê người không biết đến bao giờ. Thậm chí anh Trác và cả nhà còn tính đến phương án: nếu không tìm được hài cốt ông Liễn thì xin một nắm đất vùng đồn điền bà Năm mang về, coi như liệt sĩ đã quy cố hương. Buổi chiều tôi tự tay đi mua sắm mọi thứ chuẩn bị cho chuyến đi. Tôi nhớ hôm trước ông Phất, cán bộ Văn phòng Thành ủy Hải Phòng chỉ cho cách tìm hài cốt bằng việc thử đặt quả trứng gà lên đầu chiếc đũa, ông bảo rất hiệu nghiệm, chưa sai bao giờ. Nghe tôi kể lại, chị Tuyên hàng xóm- vợ liệt sĩ cũng xác nhận như vậy. Chị nguyên là Phó phòng Giáo dục huyện Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình) nay đã nghỉ hưu, hồi vào nghĩa trang Trường Sơn tìm mộ “gió thổi ào ào, vậy mà quả trứng đặt trên đầu đũa không hề lung lay cứ như được cắm chặt vào đó, cô chú ạ”. Chị nói thêm đũa phải sạch, trứng gà phải tươi thì mới linh. Vì sợ bị lôi cuốn vào những chuyện phép thuật ma mị nên tôi ra chợ Đồng Quốc Bình gần nhà tự tay chọn mua 5 quả trứng gà thật tươi, rửa sạch lau khô; chọn 5 chiếc đũa trong bó đũa mới chưa hề dùng bọc lại cẩn thận. Làm vậy nhưng lòng vẫn thoáng chút hồ nghi bởi trước đó, dịp Tết dương lịch Khuê con trai tôi đã lên Thái Nguyên tiền trạm để chính thức xin phép ông Thảo cho tìm hài cốt trong vườn nhà ông, nhân tiện thử đặt trứng nhưng mấy lần đều không thành công.
Ngày 7.1.2005 (27 tháng 11 Nhâm Thân), đoàn đi Thái Nguyên đã sẵn sàng, ngoài những người tham gia hai đợt trước nay bổ sung những con cháu khỏe mạnh nhanh nhẹn nhất trong họ như Thanh Long (thượng tá hải quân), Ngọc San, Lương Vân (giáo viên), Quang Hiệu (kỹ sư), Công Khuê (sĩ quan hậu cần). Đêm trước khi khởi hành tôi gần như không ngủ vì lo chuyến đi không thành công. Mà lần này về tay không cũng có nghĩa là ông Liễn nằm chốn nào đó quê người không biết đến bao giờ. Thậm chí anh Trác và cả nhà còn tính đến phương án: nếu không tìm được hài cốt ông Liễn thì xin một nắm đất vùng đồn điền bà Năm mang về, coi như liệt sĩ đã quy cố hương. Buổi chiều tôi tự tay đi mua sắm mọi thứ chuẩn bị cho chuyến đi. Tôi nhớ hôm trước ông Phất, cán bộ Văn phòng Thành ủy Hải Phòng chỉ cho cách tìm hài cốt bằng việc thử đặt quả trứng gà lên đầu chiếc đũa, ông bảo rất hiệu nghiệm, chưa sai bao giờ. Nghe tôi kể lại, chị Tuyên hàng xóm- vợ liệt sĩ cũng xác nhận như vậy. Chị nguyên là Phó phòng Giáo dục huyện Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình) nay đã nghỉ hưu, hồi vào nghĩa trang Trường Sơn tìm mộ “gió thổi ào ào, vậy mà quả trứng đặt trên đầu đũa không hề lung lay cứ như được cắm chặt vào đó, cô chú ạ”. Chị nói thêm đũa phải sạch, trứng gà phải tươi thì mới linh. Vì sợ bị lôi cuốn vào những chuyện phép thuật ma mị nên tôi ra chợ Đồng Quốc Bình gần nhà tự tay chọn mua 5 quả trứng gà thật tươi, rửa sạch lau khô; chọn 5 chiếc đũa trong bó đũa mới chưa hề dùng bọc lại cẩn thận. Làm vậy nhưng lòng vẫn thoáng chút hồ nghi bởi trước đó, dịp Tết dương lịch Khuê con trai tôi đã lên Thái Nguyên tiền trạm để chính thức xin phép ông Thảo cho tìm hài cốt trong vườn nhà ông, nhân tiện thử đặt trứng nhưng mấy lần đều không thành công.
Những quả trứng như bị hút chặt vào đầu đũa, ngay nơi sau đó tìm thấy hài cốt ông Liễn (người trong ảnh là Nguyễn Ngọc San, cháu gọi ông Liễn bằng ông)
THÊM NHỮNG ĐIỀU KỲ LẠ
Đúng
5 giờ sáng 8.1.2005 tất cả tập trung đông đủ và khởi hành. Quốc lộ 18B mới hoàn
thành, đường vắng, xe bon bon nên mới hơn 8 giờ đã đến xã Đồng Bẩm. Kha và Trí
vào ủy ban xã liên hệ, số còn lại thẳng đến nhà ông Thảo. Gia đình dường như
vẫn chờ đợi niềm nở tiếp đón, nhất trí cho đào thăm dò, khai quật khu vực góc vườn
nhưng bà Thảo bảo “cô ạ, vườn nhà tôi thật nhưng phép công lệ làng, có sự đồng
ý của ủy ban là tốt nhất”. Trong khi chờ đợi, chúng tôi xin phép ông Thảo cho
thắp hương cúng bái gia tiên và thần thổ công đất nước và cũng xin được đền bù
thỏa đáng nếu việc tìm kiếm mộ liệt sĩ làm ảnh hưởng, thiệt hại tài sản của gia
đình. Một lúc sau Trí và Kha từ ủy ban về có vẻ buồn, hơi lo lắng, nói rằng
việc xin phép chính quyền gặp trục trặc vì xã không dám quyết, yêu cầu phải có
sự đồng ý của huyện. Kẹt ở chỗ hôm nay thứ bảy ngày nghỉ nên huyện không làm
việc. Biết làm sao đây? Trước khi lên đường, chúng tôi đã báo cáo Đảng ủy, ủy
ban xã nơi quê nhà và các anh ấy hứa sẽ tổ chức thật trọng thể lễ đón hài cốt
liệt sĩ về nghĩa trang. Ngày giờ đã định rồi. Cả gia đình họ tộc đang mong
ngóng chờ đợi. Chúng tôi hội ý và quyết định cứ xin phép ông Thảo cho tìm kiếm
trước, thủ tục giấy tờ lo sau. Nghe San thắc mắc sao đi đâu cũng vướng thủ tục
hành chính rườm rà, anh Nguyễn Văn Thanh, cán bộ xã phụ trách công tác thương
binh- xã hội (thay anh Vũ Ngọc Văn đã chuyển sang công tác bên Hội đồng Nhân
dân) giải thích nếu tìm thấy hài cốt liệt sĩ thì chính quyền địa phương phải có
trách nhiệm tổ chức lễ tiễn đưa theo đúng chính sách với người đã hy sinh, vì
vậy sự đồng ý của các cấp là cần thiết. Chúng tôi hiểu ra và thông cảm.
Trước
khi đào, chúng tôi bày lễ vật, trầu cau, trái cây, đồ vàng mã... ra cúng rồi
lấy trứng, lấy đũa để thử. Ai cũng hồi hộp, nhất là Khuê vì Khuê đã làm thử mấy
lần kỳ trước không thành. Nếu trứng không đậu được trên đầu đũa có nghĩa là
niềm tin, niềm hy vọng rất mong manh. Đầu tiên tôi khấn “Chú ơi, chú có linh
thiêng hãy báo cho chúng con biết chú nằm ở đâu, con đặt trứng thì trứng sẽ
đậu”. Không khí trang nghiêm, nét mặt người nào cũng căng thẳng. Đất rắn quá,
tôi cắm chiếc đũa mãi mới được. Tay run run, gần như không còn hơi thở, tôi nhẹ
đặt quả trứng lên đầu đũa. Vài cơn gió thổi nhẹ, lá cây xào xạc. Chỉ một lần,
quả trứng đậu ngay, im lìm, vững chãi. Tôi òa khóc. Đến lượt San- cháu trưởng,
quả trứng đậu liền. Hiệu làm tiếp theo, run lập cập, tưởng rớt ai ngờ trứng
cũng nằm ngay ngắn trên đầu đũa. Một thanh niên địa phương thấy vậy xin thử
nhưng làm hết cách trứng vẫn rơi. Những quả trứng đang ngự trên đầu đũa dường
như có một lực vô hình giữ chặt mặc gió thổi, tiếng động chân người đi qua đi
lại. Lúc tàn hương, tôi lấy quả trứng ra có cảm giác nó hút chặt lấy đầu đũa,
hỏi San và Hiệu, cả hai đều có cảm giác y như thế.
Ông Nguyễn Đức Phụng dặn thêm: cần đào sát vào mé tường, nơi có mấy bụi cây (rau ngót) mọc lúp xúp (từ trái sang: Nguyễn Ngọc Trai, Lương Vân - con và rể anh Trác, Nguyễn Quang Hiệu - con anh Huy, Thanh Long, Minh Trí - rể và con trai trưởng anh Trác
Ông Nguyễn Đức Phụng dặn thêm: cần đào sát vào mé tường, nơi có mấy bụi cây (rau ngót) mọc lúp xúp (từ trái sang: Nguyễn Ngọc Trai, Lương Vân - con và rể anh Trác, Nguyễn Quang Hiệu - con anh Huy, Thanh Long, Minh Trí - rể và con trai trưởng anh Trác
Bắt đầu đào hố thứ nhất. Trai liên lạc với ông Nguyễn Đức Phụng nhưng sóng điện thoại di động chập chờn nên không được. Qua lớp đất màu phía trên còn dễ đào, càng xuống sâu càng rắn. Bà con xung quanh kéo đến xem bảo “May đêm qua trời mưa to, đất đã mềm nhiều đấy”. Cả 9 người hì hục đào. Buổi sáng trôi qua, hố thứ nhất đã sâu nhưng vẫn không thấy gì. Nghỉ trưa, kéo nhau ra thị trấn Chùa Hang ăn cơm, mấy cô cháu anh chị em động viên nhau gì thì gì cũng quyết tâm tìm cho bằng được. Nói vậy nhưng lòng tôi mơ hồ nghĩ nếu lần này không tìm được chú thì chả còn dịp nào nữa. Buồn và lo. Buổi chiều kéo nhau về đào tiếp. Một bác thợ xây ra xem mách chúng tôi nên nhờ hai người thợ đấu (chuyên đào đất) có nhiều kinh nghiệm tìm mồ mả ở đây, trong đó có anh Đinh. Mời họ đến. Xem xét một lúc, anh Đinh quả quyết muốn tìm trúng mộ phải đào tìm được cái miệng giếng cũ bởi lúc nhỏ anh thường chơi đùa ở giếng, thấy gần đó có nấm đất hình như là mộ thì phải. Chả biết ai đã đào cái giếng nhưng nước xấu nên sau đó lấp đi. Theo chỉ dẫn của anh Đinh, hố thứ hai được mở rộng về hướng đông, sát góc tường, quả nhiên thấy một miệng giếng cũ còn cả gạch bao. Thật may lúc ấy Trai liên lạc được với nhà ngoại cảm Nguyễn Đức Phụng. Qua điện thoại, ông Phụng hướng dẫn: “Mộ nằm ở chỗ có nhiều bụi cây lúp xúp, cao khoảng 20- 30cm”. Nhìn kỹ, thật kỳ lạ, xung quanh đây có đến mấy chục bụi cây rau ngót mà chủ nhà vừa mới đốn, chỉ còn cao cỡ như vậy. Ai nấy rất mừng. Xế chiều, mấy cụ bà trong xóm đến chơi xem, thăm hỏi, ngồi ăn trầu uống nước ngay chỗ chúng tôi đào. Một bà sốt sắng “để tôi khấn xin âm dương giúp cô”. Bà Thảo chủ nhà vào buồng lấy cho mượn hai đồng tiền cổ, còn tôi chuẩn bị trầu cau, gạo muối và ít tiền lẻ làm lễ vật khấn xin âm dương. Bà cụ thành kính khấn “Cụ ơi, cụ có nằm ở đây thì cho con cháu xin nhất âm nhất dương. Nhược bằng không phải, xin cụ cũng cho con cháu biết” rồi tung hai đồng chinh lên, rơi xuống lòng đĩa. Nhất âm nhất dương. Bà lão thở phào: “Chắc chắn cụ nằm ở đây, cô ạ !”. Đào tiếp. Trời gần tối, hố thứ hai đã sâu hun hút mà vẫn chưa thấy tín hiệu gì. Anh Trường (lái xe) vốn ít nói suốt từ sáng chỉ quan sát mọi người làm, đến giờ mới lên tiếng: “Chưa thấy ngay đâu, phải đến mai cơ. Cụ còn thử thách con cháu đấy”. Trời tối. Nhà nhà đã lên đèn. Trước khi về để mai đào tiếp, tôi lấy 2 quả trứng còn lại ra thử. San đặt một quả, đậu. Quả kia, trước khi đặt, tôi cẩn thận cắm đầu to của chiếc đũa xuống đất, đầu nhỏ hướng lên trên. Đặt trứng vào, dính chặt. Chúng tôi hẹn hai người thợ đấu ngày mai làm tiếp. Trai và San điện về báo tình hình cho ở nhà yên tâm. Chỉ còn ngày mai nữa thôi. Quê nhà đang đợi từng giờ.
Sáng hôm
sau (9.1.2005), Trai liên lạc được với ông Phụng. Ông hỏi: “Đào đến đâu rồi?”.
Trai thưa đã sang hố thứ hai nhưng vẫn chưa thấy gì. Ông Phụng: “Phải đào lại
hố thứ nhất, sâu hơn và mở rộng vào phía chân tường rào!”. Mọi người đang phân
vân hỏi nhau tại sao phải sâu đến thế thì được một người dân địa phương đi
ngang qua giải thích đây vốn là sườn đồi, suốt mấy chục năm người ta san lấp
dần để trồng trọt, đất từ trên cao trôi xuống sau mỗi trận mưa nên phải bóc
hàng mét đất bề mặt mới tới tầng đất gốc. Ông còn cho biết thêm phong tục nơi
này khi chôn thường quay đầu về hướng chùa Hang, chân đạp núi Voi, nói xong bỏ
đi thẳng. Chúng tôi chợt hiểu rằng đúng là phải có người thạo địa hình nơi này
thì mới được, thầm cám ơn người đàn ông vô danh kia. Nguyễn Ngọc Trai thông báo
tiếp chỉ dẫn của ông Phụng: “Đầu mộ ở phía có bụi chuối tây”. Nhìn kỹ cả khu
vườn bạt ngàn là chuối nhưng duy nhất chỉ có một bụi chuối tây phía giàn trầu,
ngay sát miệng hố thứ hai. Những thông tin đã trùng khớp về vị trí, hướng mộ.
Đào thêm chút nữa, từ dưới hố sâu, người thợ đấu reo lên: A, có mạch đất khác.
Lúc đó Long, Trai, Hiệu cũng đang dưới lòng hố, còn những người phía trên đều
đổ xô lại. Giữa hai lớp đất gan gà màu vàng ươm hiện lên một mạch đất đen mỏng,
dài khoảng hơn một mét, ước chừng ở dưới độ sâu 2 mét (sau này Hiệu bảo: khi
chạm mạch đất đó cháu thấy tự dưng lạnh toát cả người). Ngay lúc ấy ông Phụng
bất chợt gọi điện lên hỏi: “Thấy rồi phải không?”. Từ lòng đất một mùi hôi rất
lạ xộc lên. Bắt chước bà lão hôm qua, tôi gieo một quẻ xin âm dương, khấn “Nếu
quả là chúng con đã tìm được chú, xin cho chúng con biết”. Chỉ một quẻ được
ngay. San đã chuẩn bị vải đỏ gói bọc hài cốt liền trải ra, chỉ có vài mẩu xương
nhỏ, mấy chiếc cúc áo, còn lại là đất đen. Ông Phụng bảo cứ vét hết lớp đất ấy
(thực ra đó chính là hài cốt bị tan biến, quả thật “thân cát bụi lại trở về cát
bụi”). Tôi thầm thắc mắc sao ít xương cốt thế, lại không còn mảnh gỗ ván nào.
Đang nghĩ vậy thì có người đến hỏi thăm. Ông Thảo chủ nhà giới thiệu đó là Bí
thư chi bộ xóm Tân Hương. Ông bí thư trạc tuổi 60 kể rằng hàng chục năm trước ở
chính chỗ này thỉnh thoảng lại đùn lên đống mối to tướng. Chợt hiểu, thế thì
làm sao mà còn xương, còn gỗ, hơn nửa thế kỷ trôi qua. Tôi thỉnh thoảng lại
gieo quẻ và khấn “Nếu đã lấy được toàn bộ hài cốt, xin chú cho biết”, quẻ đều
báo chưa hết. Lần gieo cuối, vừa xin xong được nhất âm nhất dương thì tôi nghe
người thợ đấu dưới hố sâu tự dưng reo lên “Cô ơi, hết rồi, chắc chắn không còn
gì nữa đâu!” cứ như chú Liễn nhấp về báo tin cho biết vậy.
Dọn
dẹp san lấp hố và làm lễ tạ xong, Kha đi gặp anh Thanh thông báo sự việc và xin
phép cho đưa hài cốt về ngay để kịp an táng ở nghĩa trang liệt sĩ quê nhà.
Chúng tôi vào nhà cảm ơn gia đình ông Thảo đã tận tình giúp đỡ, gửi tiền nhờ
gia đình làm một cái lễ tạ ơn theo đúng phong tục, tiền nhờ người sửa sang lại
vườn tược... Hơn 11 giờ, cả đoàn lên xe trực chỉ Hải Phòng. Trên đường về cảm
thấy rõ một mùi hôi lạ thường vương vất, quấn quít trên xe, lòng tôi thầm nhủ
“Đúng là chú Liễn rồi, không thể nào sai được”. Lúc qua Phả Lại dừng xe vào ăn
cơm, San, Long, Trí thật chu đáo mỗi khi lên xuống đều kính cẩn khấn mời ông
theo cùng. Đúng 14 giờ, hài cốt liệt sĩ Nguyễn Văn Liễn về đến nghĩa trang liệt
sĩ xã Thụy Hương (huyện Kiến Thụy) được Đảng ủy, chính quyền và gia đình đón
tiếp chu đáo, làm lễ an táng trọng thể cùng ngày. Sau 54 năm kể từ khi hy sinh,
chú Liễn tôi đã trở về nằm yên ấm trên mảnh đất quê hương.
Lễ truy điệu liệt sĩ Nguyễn Văn Liễn được tổ chức trọng thể chiều cùng ngày 9.1.2005, đưa ông về yên nghỉ tại nghĩa trang quê nhà sau gần 50 năm
Có kết quả tốt đẹp này, chúng tôi xin được cảm tạ tấm lòng tốt của bà con xóm Tân Hương, xã Đồng Bẩm, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; của gia đình ông bà Thảo và bà Mai Trung Lâm, các anh Đỗ Ngọc Văn, Nguyễn Văn Thanh, anh Định; ông Khánh, ông Phất (Thành ủy Hải Phòng) cùng nhiều người vô danh khác. Đặc biệt xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ông bà Hanh (con cụ Nguyễn Thị Năm), cô đồng Hà, sư cụ chùa Hang, ông Nguyễn Đức Phụng và Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, nếu không có sự giúp đỡ tận tình của các vị chắc chắn gia đình tôi không thể tìm được người thân.
Tất
cả những gì chúng tôi đã trải qua, đã thực hiện và chứng kiến là hoàn toàn có
thực. Có đôi chút ngẫu nhiên, trùng lặp kỳ lạ rất khó tìm lời giải đáp. Chúng
tôi cũng như bạn đọc hãy cứ tin rằng quanh ta còn rất nhiều điều kỳ diệu, nó tự
nhiên như cuộc sống vậy, chỉ có điều ta chưa hiểu hết mà thôi.
NGUYỄN
THỊ NGỌT - NGUYỄN THÔNG
No comments:
Post a Comment